Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2010

Hai bà Trưng tế Mã Viện ở Đông Hưng! (?) MÃ VIỆN LÀ AI, XÂY TRỤ ĐỒNG Ở ĐÂU VÀ ĐỂ LÀM GÌ ?

Toàn cảnh nhà máy luyện Alumin Tân Rai- Lâm Đồng trưng ở cổng vào nhà máy là Âm Thuỷ, một phần của bùa chú có tượng hình sinh thực khí đàn bà...

Hoạt Động Kỷ Niệm 1970 Năm Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng
Hai bà Trưng tế Mã Viện ở Đông Hưng!
Ngày 21.3.2010, khi cả nước nhộn nhịp tổ chức Lễ hội kỷ niệm 1970 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng thì “nước lạ” kế bên cũng tổ chức “Miếu Hội Phục Ba Tướng Quân” tại Đông Hưng (thành phố giáp giới với cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam). Nhưng đặc biệt là trong vài năm nay, cụ thể là từ năm 2008 đến nay “Miếu Hội Phục Ba Tướng Quân” có sự tham dự “âm thầm” của Đoàn Nghệ Thuật do chính phủ Việt Nam gửi sang. Sự tham dự của Đoàn Nghệ Thuật Việt Nam được báo đài Trung Cộng ca ngợi là “hiện tượng văn hóa” thể hiện sự hợp tác giao hảo ngày càng đậm tình của Việt Nam.
[1] Báo chí Trung Quốc đưa tin: “Kỷ Niệm Dân Tộc Anh Hùng, Quảng Dương Phục Ba Văn Hóa” (Nhật Báo Đông Hưng, 17.2.2008). Khung màu đỏ trong hình giới thiệu đoàn nghệ nhân Việt Nam.
[2] Vệ Quốc Anh Hùng, Vạn Dân Kính Ngưỡng

Vệ Quốc Anh Hùng, Vạn Dân Kính Ngưỡng: “Phục Ba” là ai? Phục Ba hay Phục Ba Tướng Quân chính là Lộ Bác Đức tức Mã Viện (Mã Văn Uyên), tên lãnh tướng đời Hán Vũ Đế đã đàn áp cuộc tranh đấu giành độc lập của nước cổ Việt dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc-Trưng Nhị tại Giao Châu. Thành tích của Mã Viện còn lưu lại trong sử sách của hai phía Việt-Hoa là những chiếc cột đồng bí ẩn với lời nguyền : “Đồng Trụ Chiết Giao Chỉ Diệt ! ”
Lịch sử Việt Nam, trời đất núi sông Việt Nam đang quay cuồng hay sao ? Ải Nam Quan không còn, Thác Bản Giốc cũng mất, Vịnh Bắc Bộ thuộc về Quảng Tây, và những vòng hoa ghi ơn “liệt sĩ Trung Quốc” v.v. Thì nay những hậu duệ của Hai Bà Trưng thay vì tuẫn tiết lãng mạn ở sông Hát đất Giao Chỉ giờ lại sang chầu phục tế hồn Mã Viện ở Quảng Tây! Có người Việt Nam nào chấp nhận nhìn những hình ảnh này hay không ? Vẫn có đấy, những tên Việt gian cộng sản xưng tụng Mã Viện là “danh tướng trong lịch sử Việt Nam ” trên mạng hỏi đáp Yahoo. Hay những tên gian lận lịch sử mắng người Việt Nam dám chửi Mã Viện trên Wikipedia. Con cháu “Mã Lưu Nhân” của ngày xưa nào giờ lại nhan nhản xuất hiện. Tôi đã đọc và nay tôi lại nhìn thấy những hình ảnh đau đớn này. Có những lúc nhìn quê hương thật buồn và cười ra nước mắt…
[3-43] Những hình ảnh sau đây biên tập từ các hình ảnh “Phục Ba Miếu Hội” tại Đông Hưng năm 2008 đến năm 2010.
[3] “Phục Ba Miếu” tại cảng Thành Phòng, thành phố Đông Hưng
[4] Đi vào bên trong, khoảng không gian tín ngưỡng
[5] Những chiếc áo dài đỏ Việt Nam sẽ có vai trò trong màn trình diễn sau.
[6] Mâm cúng theo kiểu truyền thống Viet Nam
[7] Cõi tăm tối linh thiêng
[8] Nhìn ra bên ngoài, Việt-Trung hữu nghị. Đoàn văn công Việt nam kính viếng
[9] Tượng Phục Ba Tướng Quân. Chắc “ngài” rất hài lòng! Những màn xiên lình rùng rợn
[10] Tướng quân xuất hiện! (Bà đồng Trung Cộng nhập vai Mã Viện)
[11] Gọi hồn Mã Viện thì phải có Hai Bà Trưng! Hai Bà Trưng và Thi Sách của đoản nghệ nhân Việt Nam
[12-13] Thuyết minh cho cuộc giao lưu
[14] Văn tế Mã Viện phiên âm ra tiếng Việt. Có chỉnh sửa chính tả cho rõ ràng để người Việt Nam phát âm chuẩn. Không khéo “ngài” giận thì bay đầu!
[15-16] Đọc văn tế Mã Viện. Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân, Thi Sách. Vừa đọc vừa dò. Màn này chưa quen với văn công cộng sản
[17-21] Hai Bà Trưng múa hát ngợi ca công đức Phục Ba Tướng Quân
[22-25] Cùng những nữ tướng thuộc quyền của Hai Bà Trưng: Ngọc Phượng Công Chúa, Khâu Ni Công Chúa, Bà Chúa Bầu, Đệ Bát Vị Đông Cung, Ngọc Lâm Công Chúa, Thiều Hoa v.v…Tất cả được chính phủ CSVN gửi sang Quảng Tây thăm Mã Viện. Màn chập chén truyền thống Việt Nam!
[26] Đến màn quy thuận Hán tộc, Hai Bà Trưng phục trang Kinh tộc thiểu số theo hầu rượu, dâng kiếm cho Mã Viện
[27-29] Lễ nhập đồng. Gọi hồn Mã Viện chứng giám Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây
[30-31] Lên đồng!
[32-35] Đồng nhập! Dâng rượu cho “ngài”
[36] Biểu diễn võ thuật! Những đường quyền chinh phục Giao Chỉ theo nhịp xướng họa của văn công Việt Nam.
[37] Biểu diễn Lân Sư. “Hai Bà” ngồi nhìn. Một bà hớn hở, một bà đăm chiêu. Bà còn nhớ đất Giao Châu hay một chiều bên dòng sông Hát?
[38] Thi Sách tươi cười trên “nước lạ”.
[39-40] Tươi cười giao lưu. Ký tên lưu niệm.
[41] Nhận thư pháp lưu niệm của “bạn bè”
[42] Lẳng lặng một em Việt Nam cầm máy ảnh theo đoàn. Em người miền nào? Hà Nội? Hải Phòng hay Móng Cái? Hình như em muốn khóc!
[43] Chân dung Mã Viện trên đường chinh Nam.

Lịch sử! Ôi lịch sử! Những trang hùng sử Việt Nam đang bị cộng sản dẫm đạp không thương tiếc! Có ai ngờ đâu những lời thơ của Nguyễn Du trong bài “Giáp Thành Mã Phục Ba Miếu” lại ứng vào thời đại ngày nay. Bi thảm!
“Tính danh hợp thướng Vân Đài họa
Do hướng Nam trung sách tuế thì”

(Mây tầng công cán không ghi
Nước Nam sao lại phải thờ khói hương)

© Chân Mây

MÃ VIỆN LÀ AI, XÂY TRỤ ĐỒNG Ở ĐÂU VÀ ĐỂ LÀM GÌ ?

Nhân sự kiện do báo mạng Trung Quốc đưa: Ngày 21/3/2010 vừa qua một số đoàn Việt Nam đã mang lễ vật sang tham dự " Miếu hội Phục Ba tướng quân " tại Đông Hưng, ( giáp giới với Móng Cái Việt Nam) do Trung Quốc tổ chức. Miếu hội tổ chức từ năm 2008 đến nay và thường có đoàn Việt Nam sang góp vui. Phục Ba Mã Viện là tướng nhà Hán, người đã đánh bại cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và thiết lập ách đô hộ của nhà Hán lên mảnh đất Giao Chỉ, Cứu Chân...
Blog Phamvietdaonv xin hiển thị lại bài viết của tác giả Thiên Đức trình bày một cách có hệ thống Phục Ba tướng quân Mã Viện là ai; âm mưu thâm độc của ông ta trong việc triệt phá sức sống của Giao Chỉ Cửu Chân như thế nào !
THIÊN ĐỨC.

Đền thờ Hai Bà Trưng ở Hà Nội
1/ Mã Viện cho xây Trụ đồng để:
- Làm Đài thiên văn ?
 - Làm trụ mốc biên giới xác định ranh giới lãnh thổ hai nước kèm theo lời thề nguyền ngụ ý hăm doạ dân Giao Chỉ không được xâm lấn lãnh thổ Trung Quốc: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt ?
- Hay trụ đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ?
2/ Trụ đồng Mã Viện xây ở đâu:
- Theo sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Trụ đồng Mã Viện đặt ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.
Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của Giáo sư-Bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á ( Pháp )“Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com), thì: biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc giáp giới với tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên ?

Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.

Vào năm 40 sau công nguyên (scn), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.

Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.

Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.

Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là:

- Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước?

- Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng?

- Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch?

- Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc?

Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải.

Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.


Không thể tải ảnh lên.


Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi:
“Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”.
Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc...

Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép:

Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã Viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.

Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang.
Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước
. (viethoc.org)
A- Trụ Ðồng Mã Viện

Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:


I - Sự thật của trụ đồng


Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.


Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy.

“Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)

“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này”
(KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279).
II - Vị trí của trụ đồng

Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau:


- Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm.


- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.


Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.


Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu?


Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của Tiến sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (
vietnamsante.com), thì:
Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.

Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay.
"TRỤ ĐỒNG MÃ VIỆN" THỜI HỒ CẨM ĐÀO LIỆU CÓ PHẢI ĐÃ ĐƯỢC CẮM Ở TÂN RAI-BẢO LÂM-LÂM ĐỒNG ?

Một trong 2660 cột trụ bê tông được đào tại nhà máy luyện alumin Tân Rai Lâm Đồng có chiều sâu 34 m và do công nhân Trung Quốc đào thủ công có giống với trụ đồng Mã Viện thời Hán ?

III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt”

Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý.

1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.

2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.

3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.

Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.

IV- Công dụng của trụ đồng


Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.

1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.

   
Vườn hoa trồng theo hình Quốc ấn tại dinh Bảo Đại- T.P Đà Lạt...

2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử).

Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.

Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.

Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?

3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng? Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?


Trụ sở làm việc của Ban quả lý dự án nhà máy luyện Alumin Tân Rai-Lâm Đồng


B - KIỂN THÀNH

Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.

Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau:

- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.

- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.

- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.

Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.

Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.


Cổng vào nhà máy luyện alumin có tượng hình sinh thực khí đàn bà, treo cờ của tập đoàn luyện alumin Chaleco Trung Quốc...
Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.

Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:

Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...

Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng...
(viethoc.org)

Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.
Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:

1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.

Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.



Trụ bêtông thời Hồ Cẩm Đào giống Dương Hoả Tượng, một loại bùa chú thời Hán có hình sinh thực khí đàn ông đóng vào sinh thực khí của đàn bà Giao Chỉ để tuyệt đường sinh sản ???

2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.

3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:

Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.

Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.



Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005





Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.

Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.

Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.





Hàng cọc trụ móng bêtông được đào thủ công có giống với trụ đồng Mã Viện khi xưa ?

Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:

- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.

- Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?).

- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.

Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:

- Ðặt đúng huyệt vị.

- Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.

- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.

Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chỉ, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.

T.Đ


Toàn cảnh nhà máy luyện Alumin Tân Rai- Lâm Đồng trưng ở cổng vào nhà máy là Âm Thuỷ, một phần của bùa chú có tượng hình sinh thực khí đàn bà...


Đây ống khói bêtông cốt thép thời Hồ Cẩm Đào có là Dương Hoả Tượng có  tượng hình sinh thực khí đàn ông...



 
  Một số hình ảnh về nhà máy luyện Alumin Lâm Đồng

http://vn.360plus.yahoo.com/phamvietdaonv/article?mid=4383&prev=-1&next=4397